Lịch sử Kinh tế Israel hiện đại Lịch_sử_Israel

Bối cảnh trước khi thành lập đất nướcLịch sử Israel hiện đại bắt đầu từ thập niên 1880, khi những người nhập cư theo chủ nghĩa Zion (chủ nghĩa phục quốc Do Thái) đầu tiên tới Palestine, khi ấy còn dưới sự quản lý của Ottoman, để gia nhập vào cộng đồng Do Thái đã sinh sống từ trước tại đó, lập nên những khu vực định cư và một số ngành công nghiệp, khôi phục tiếng Hebrew làm ngôn ngữ chính thức quốc gia, và tạo lập nên những định chế kinh tế và xã hội mới. Những hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất khiến dân số Do Thái giảm một phần ba, xuống còn 56.000 người, tương đương với mức đầu thế kỷ.

Vì hậu quả chiến tranh, Palestine rơi vào tầm kiểm soát của Anh, Tuyên bố Balfour của Anh trước đó đã kêu gọi thành lập một Quốc gia Do Thái tại Palestine. Quyền kiểm soát của Anh Quốc được chính thức công nhận năm 1920, khi họ được Hội quốc liên chính thức Ủy quyền cai trị Palestine. Trong thời gian Ủy quyền, kéo dài tới tận tháng 5 năm 1948, cơ cấu xã hội, chính trị và kinh tế của một quốc gia Israel tương lai đã được phát triển. Dù chính phủ Palestine chỉ có một chính sách kinh tế duy nhất, các nền kinh tế Do Thái và Ả rập phát triển riêng biệt, có rất ít quan hệ với nhau.

Hai yếu tố là phương tiện bồi dưỡng sự phát triển kinh tế nhanh chóng của khu vực Do Thái: sự nhập cư và các dòng vốn. Dân số Do Thái tăng chủ yếu nhờ nhập cư; tới cuối năm 1947 đã đạt tới 630.000, khoảng 35 phần trăm tổng dân số. Những người nhập cư tới theo từng đợt, với số lượng đặc biệt lớn vào giữa thập niên 1920 và 1930. Họ gồm những người thuộc ý thức hệ Zion và người tị nạn, cả kinh tế và chính trị, từ Đông và Trung Âu. Các dòng vốn gồm cả vốn công cộng, được các định chế Zion thu thập, nhưng chủ yếu là vốn tư nhân. Sản phẩm quốc nội tăng trưởng mạnh mẽ trong những giai đoạn nhập cư lớn, nhưng cả hai làn sóng nhập cư lớn đều kéo theo những thời kỳ giảm sút, những giai đoạn chỉnh sửa và củng cố.

Trong giai đoạn từ năm 1922 tới 1947 Sản phẩm Quốc nội Thực (NDP) của khu vực Do Thái tăng trưởng với mức độ trung bình 13.2 phần trăm, và tới năm 1947 đã chiếm 54 phần trăm NDP nền kinh tế của cả khu vực Do Thái và Ả rập. NDP trên đầu người ở khu vực Do Thái tăng ở mức 4.8 phần trăm; tới cuối giai đoạn này nó đã vượt 8.5 lần so với năm 1922, và lớn gấp 2.5 lần khu vực Ả rập (Metzer, 1998). Dù phát triển nông nghiệp - một mục tiêu ý thức hệ - không đáng kể, lĩnh vực này chưa bao giờ chiếm hơn 15 phần trăm tổng sản phẩm quốc nội thực của kinh tế Do Thái. Tăng trưởng sản xuất ở mức chậm trong hầu hết thời gian này, nhưng rất nhanh chóng trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Palestine không bị cạnh tranh từ phía bên ngoài và trở thành nhà cung cấp chính cho các lực lượng quân sự Anh ở Trung Đông. Tới cuối giai đoạn, sản xuất đã chiếm một phần tư NDP. Xây dựng nhà cửa, dù là một yếu tố nhỏ của NDP, là lĩnh vực hay thay đổi nhất, và có đóng góp vào các vòng luân chuyển kinh doanh. Một yếu tố nổi bật của kinh tế Do Thái trong thời gian Uỷ trị, và tiếp tục đảm trách vai trò ở các giai đoạn sau này, chiếm phần quan trọng trong lĩnh vực dịch vụ - hơn một nửa tổng NDP. Lĩnh vực dịch vụ còn gồm cả giáo dục và y tế, nền tài chính hiệu quả và các lĩnh vực kinh doanh, và các định chế bán chính phủ Do Thái, sau này sẽ sẵn sàng đảm trách trách nhiệm của các cơ quan chính phủ.

Những năm hình thành: 1948-1965Nhà nước Israel đang được hình thành, giữa tháng 5 năm 1948, trong một cuộc chiến với những người Ả rập láng giềng. Những vấn đề kinh tế trước mắt rất nghiêm trọng: để đảm bảo đủ tiền chi trả cho cuộc chiến, và để thu hút càng nhiều người nhập cư càng tốt (ban đầu là những người tị nạn tại các trại ở châu Âu và Cyprus), để cung cấp các đồ dùng căn bản cho người già và dân số mới, và để tạo lập một bộ máy chính phủ quan liêu nhằm đối phó với những thách thức đó. Việc thành lập một chính phủ diễn ra khá êm xuôi, bởi các định chế bán chính phủ Do Thái vốn đã phát triển trong thời gian Uỷ trị hiện trở thành các cơ quan của chính phủ.

Những thoả thuận ngừng bắn được ký kết năm 1949. Tới cuối năm đó, tổng cộng 340.000 người nhập cư đã tới, và tới cuối năm 1951 có thêm 345.000 người (những người này gồm cả người nhập cư từ các nước Ả rập), tăng gấp đôi số dân Do Thái. Những nhu cầu cấp bách được đáp ứng bằng một chương trình thắt lưng buộc bụng chặt chẽ và chính sách tài chính lạm phát của chính phủ, được kìm nén bằng các biện pháp quản lý giá và cung cấp các nhu yếu phẩm bằng tem phiếu. Tuy nhiên, các vấn đề như cung cấp nhà cửa và sử dụng lực lượng lao động mới chỉ được giải quyết dần dần. Một Chính sách Kinh tế Mới được đưa ra đầu năm 1952. Nó bao gồm việc phá giá trao đổi ngoại tế, dần giảm các biện pháp quản lý giá và cung cấp tem phiếu, và kìm chế mở rộng tiền tệ, chủ yếu bằng cách kiềm chế ngaâ sách. Những biện pháp khuyến khích nhập cư bị cắt bớt, để chờ đợi sự hội nhập của những người di cư trước đó.

Từ năm 1950 tới 1965, Israel đã đạt mức tăng trưởng cao: GNP Thực (Tổng Sản phẩm Quốc dân) tăng trưởng ở mức trung bình 11 phần trăm và GNP trên đầu người ở mức hơn 6 phần trăm. Nhân tố nào đã khiến điều này trở thành hiện thực?Israel may mắn nhận được những dòng vốn lớn: sự hỗ trợ của Hoa Kỳ dưới hình thức chuyển vốn và những khoản cho vay đơn phương, sự bồi thường thiệt hại của Đức và sự hoàn trả các khoản tiền tư nhân, việc bán Khế ước nợ của Nhà nước Israel ra nước ngoài, và việc đơn phương chuyển các khoản hoàn trả công cộng, chủ yếu là Cơ quan Do Thái, vốn chịu trách nhiệm thu hút người nhập cư và các khu định cư nông nghiệp. Vì thế, Israel có được những nguồn tài nguyên lớn để sử dụng trong nước – cho tiêu thụ công cộng và cá nhân và đầu tư - khoảng 25 phần trăm lớn hơn chính GNP của họ. Điều này khiến họ có khả năng tiến hành một chương trình đầu tư ở diện rộng, chủ yếu được cung cấp tài chính thông qua một khoản ngân sách đặc biệt của chính phủ. Cả những nhu cầu tội phạm và triết lý xã hội của đảng chính trị lớn trong các liên minh chính phủ dẫn tới sự can thiệp sâu của chính phủ vào nền kinh tế.

Ngân sách chính phủ và các biện pháp bảo vệ mạnh mẽ để thay thế nhập khẩu, cho phép phát triển các ngành công nghiệp mới, chủ yếu là dệt may, và các khoản trợ cấp giúp tăng trưởng xuất khẩu, ngoài món hàng xuất khẩu truyền thống là các sản phẩm cam quýt và gia công kim cương.

Trong bốn thập kỷ từ giữa thập niên 1960 tới ngày nay, nền kinh tế Israel đã phát triển và thay đổi, cũng như chính sách kinh tế của họ. Một lĩnh vực chính phản ánh những sự phát triển đó là cuộc xung đột Ả rập-Israel. Ảnh hưởng của nó được chú ý đầu tiên, và tiếp đó là những xáo động ngắn hạn trong tăng trưởng kinh tế cũng như tiến trình hoạch địch chính sách kinh tế.

Cuộc xung đột Ả rập-IsraelSự kiến đáng quan tâm nhất của thập kỷ 1960 là Cuộc chiến sáu ngày năm 1967, cuối cuộc chiến này Israel đã kiểm soát Bờ Tây (Sông Jordan) – vùng thuộc Palestine đã bị Jordan sáp nhập từ năm 1949 – và Dải Gaza, khi ấy thuộc quyền kiểm soát của Ai Cập.

Như một hậu quả của việc chiếm đóng các vùng đất đó Israel chịu trách nhiệm về đời sống kinh tế và chính trị tại các vùng họ chiếm đóng. Những khu vực Ả rập tại Jerusalem được thống nhất vào các khu vực Do Thái. Các khu định cư Do Thái được thành lập tại nhiều vùng lãnh thổ chiếm đóng. Khi những vụ việc căng thẳng tăng lên, các khoản đầu tư đặc biệt vào hạ tầng được tiến hành để bảo vệ những người định cư Do Thái. Sự phân bổ các nguồn tài nguyên cho những người định cư Do Thái tại những vùng đất chiếm đóng bắt đầu trở thành một vấn đề chính trị và kinh tế từ thời điểm đó.

Kinh tế Israel và các lãnh thổ bị chiếm đóng được hoà nhập một phần. Việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ phát triển, với những hạn chế trong việc xuất khẩu tới Israel các sản phẩm bị cho là có tính cạnh tranh quá cao, và những công nhân Palestine được vào làm việc bên trong Israel đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng và nông nghiệp. Ở thời kỳ đỉnh điểm, năm 1996, số nhân công người Palestine làm việc tại Israel lên tới 115.000 đến 120.000 người, chiếm khoảng 40 lực lượng lao động Palestine, nhưng chưa bao giờ chiếm hơn 6.5 lực lượng lao động tại Israel. Vì thế, trong khi việc lao động tại Israel là nhân tố đóng góp chính vào nền kinh tế Palestine, thì những hiệu ứng của nó trên kinh tế Israel, trừ các lĩnh vực nông nghiệp và xây dựng, không lớn.

Kinh tế Palestine phát triển nhanh chóng – thu nhập thực trên đầu người của quốc gia tăng với mức độ trung bình gần 20 phần trăm hàng năm trong giai đoạn 1969-1972 và 5 phần trăm trong giai đoạn 1973-1980 – nhưng đã thay đổi rất bất thường sau giai đó, và trên thực tế đã giảm sút trong những khoảng thời gian xảy ra các vụ việc thù địch giữa hai bên. Thu nhập trên đầu người của người Palestine bằng 10.2 phần trăm mức thu nhập bình quân đầu người của người dân Israel năm 1968, 22.8 phần trăm năm 1986, và giảm xuống còn 9.7 phần trăm năm 1998 (Kleiman, 2003).

Một phần nhờ tiến trình hoà bình giữa Israel và người Palestine bắt đầu được tiến hành trong thập niên 1990, một thoả thuận kinh tế được ký kết giữa hai bên năm 1994, trên thực tế nó chuyển đổi cái từng hầu như là thoả thuận hải quan một bên (vốn trao cho Israel toàn quyền hành động trong việc xuất khẩu vào các vùng lãnh thổ nhưng hạn chế các loại hàng xuất khẩu của Palestine vào Israel) trở thành một liên minh thuế quan công bằng hơn: thực tế Israel được hưởng chính sách thương mại bên ngoài đồng nhất trong khi người Palestine chỉ được trao một số chủ quyền hạn chế trong việc nhập khẩu một số loại hàng hoá.

Những cuộc nổi dậy của người Ả rập (intifadas), trong thập niên 1980, và đặc biệt là cuộc nổi dậy có mức độ bạo lực cao hơn bắt đầu từ năm 2000 và tiếp diễn tới tận năm 2005, dẫn tới việc Israel đưa ra nhiều biện pháp hạn chế chặt chẽ những hoạt động thương mại giữa hai nền kinh tế, đặc biệt trong việc sử dụng nhân công Palestine tại Israel, và thậm chí là việc tái chiếm bằng quân sự một số vùng đã được trao cho người Palestine kiểm soát trước kia. Các biện pháp đó khiến nền kinh tế Palestine tụt hậu nhiều năm, xoá sạch đa số những thành quả thu nhập đầu người từng đạt được từ năm 1967 – GNP trên đầu người năm 2004 là $932, so với khoảng $1500 năm 1999. Các công nhân Palestine tại Israel được thay thế bằng các công nhân nước ngoài.

Một quan hệ kinh tế quan trọng của cuộc xung đột Ả rập-Israel là Israel phải tái cơ cấu một phần quan trọng trong ngân sách quốc phòng của họ. Tầm vóc của ngân sách quốc phòng luôn thay đổi, tăng trong chiến tranh và trong những cuộc xung đột quân sự. Tổng gánh nặng quốc phòng (gồm cả các chi phí không thuộc trong ngân sách) đã đạt tới mức cao nhất trong và sau cuộc Chiến tranh Yom Kippur năm 1973, chiếm tần 30 phần trăm GNP trong giai đoạn 1974-1978. Trong giai đoạn 2000-2004, chỉ riêng ngân sách quốc phòng lên tới khoảng 22 đến 25 phần trăm GDP. Israel rất may mắn nhận được các khoản tiền hỗ trợ to lớn từ phía Hoa Kỳ. Cho tới năm 1972 đa số chúng tới từ các khoản trợ cấp hay vay nợ, đặc biệt dưới hình thức mua hàng nông nghiệp Hoa Kỳ. Nhưng từ năm 1973 viện trợ của Hoa Kỳ đã thay đổi trở nên liên quan mật thiết hơn tới nhu cầu quốc phòng của Israel. Trong giai đoạn 1973-1982 các khoản trợ cấp và vay nợ một năm trung bình ở mức $1.9 tỷ, và chiếm khoảng 60 phần trăm tổng nhập khẩu quốc phòng. Nhưng thậm chí trong những giai đoạn yên gắng nhất, gánh nặng quốc phòng, chưa tính tới khoản hỗ trợ của Mỹ, đã lớn hơn cả khoản chi thông thường của các quốc gia công nghiệp trong thời gian hoà bình.

Tăng trưởng và sự Dao động kinh tếIsrael từng đạt những mức độ tăng trưởng cao nhất về thu nhập và thu nhập trên đầu người cho tới năm 1973, nhưng từ đó nó không bao giờ còn có thể quay về mức cũ nữa. Tăng trưởng GDP thường có biến động, nói chung trong khoảng 2 đến 5 phần trăm, đạt tới mức 7.5 phần trăm năm 2000, nhưng đã giảm xuống dưới 0 trong những năm giảm phát từ 2001 tới giữa 2003. Tới cuối thế kỷ 20, thu nhập trên đầu người đạt mức khoảng $20.000, tương tự mức ở những nước có mức độ công nghiệp hoá cao hơn.

Những biến động kinh tế tại Israel thường có liên quan tới những làn sóng nhập cư: một làn sóng người nhập cư lớn bất thần khiến những nhu cầu dân cư tăng cao trong một giai đoạn cho tới khi họ hội nhập được vào nền kinh tế, với những khoản đầu tư cho sự hội nhập đó. Nhập cư không bao giờ còn đạt mức cao như những năm đầu tiên sau khi Nhà nước được thành lập, nhưng sau khi Liên bang Xô viết bãi bỏ những quy định hạn chế, làn sóng nhập cư lại một lần nữa tăng khá cao. Tổng số người nhập cư trong giai đoạn 1972-1982 là 325.000, và sau khi Liên bang Xô viết tan rã tổng số người nhập cư lên tới 1.050.000 trong giai đoạn 1990-1999, chủ yếu từ các nước Cộng hoà thuộc Liên Xô trước đây. Không giống như ở giai đoạn trước, những người nhập cư lần này dần hội nhập vào nền kinh tế (dù thường không làm việc trong lĩnh vực trước đây) không cần nhờ đến các dự án tạo việc làm của chính phủ. Tới cuối thế kỷ dân số Israel vượt quá 6.300.000 người, và số lượng dân Do thái chiếm 78 phần trăm. Những người nhập cư từ Liên Xô cũ chiếm một phần năm số dân Do Thái, và là lực lượng lao động chất xám quan trọng của đất nước.

Khi kinh tế phát triển, cơ cấu sản xuất cũng thay đổi. Dù các lĩnh vực dịch vụ vẫn chiếm một phần khá lớn – thương mại và dịch vụ đóng góp 46 phần trăm sản phẩm trong lĩnh vực kinh doanh – nông nghiệp đã giảm tầm quan trọng, và công nghiệp chiếm một phần tư tổng thể. Cơ cấu sản xuất cũng đã thay đổi: cả trong tổng sản lượng và trong số phần trăm xuất khẩu, các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu truyền thống, hàm lượng kỹ thuật thấp giảm bớt, và những loại hàng tinh vi, có hàm lượng kỹ thuật cao, đặc biệt trong lĩnh vực điện tử đã chiếm một phần quan trọng.

Những biến động trong sản lượng sản xuất được đánh dấu bởi các giai đoạn lạm phát và các giai đoạn tỷ lệ thấp nghiệp cao. Sau một sự thay đổi trong chính sách tỷ giá cuối thập kỷ 1970 (như được thảo luận dưới đây), một giai đoạn từ từ giảm lạm phát diễn ra. Những tỷ lệ lạm phát siêu tốc xuất hiện trong thập kỷ 1980, khoảng 400 phần trăm mỗi năm khi một chính sách ổn định quyết liệt được áp dụng năm 1985. Tỷ giá trao đổi ổn định, ngân sách và tiền tệ được thắt chặt, và lương cũng như giá ổn định đã khiến tỷ lệ lạm phát giảm lớn xuống mức chưa tới 20 phần trăm, và sau đó là khoảng 16 phần trăm cuối thập kỷ 1980. Các chính sách tiền tệ rất mạnh mẽ, từ cuối thập kỷ 1990, cuối cùng đã khiến tỷ lệ lạm phát còn 0 phần trăm năm 2005. Tuy nhiên, chính sách này, cộng với các yếu tố bên ngoài như sự phát triển của bong bóng công nghệ cao, sự giảm phát trên thế giới, và tình trạng mất an ninh bên trong do hậu quả của phong trào intifada, dẫn tới tỷ lệ thất nghiệp lên tới 10 phần trăm từ đầu thế kỷ mới. Những cải thiện kinh tế có được từ nửa cuối năm 2003, tới nay (tháng 2 năm 2005), không khiến con số thất nghiệp giảm nhiều.

Những thay đổi chính sáchNền kinh tế Israel ban đầu bị nhà nước quản lý chặt chẽ. Dần dần nó chuyển sang một nền kinh tế thị trường khá tự do (dù không hoàn toàn như vậy). Quá trình này đã bắt đầu từ thập kỷ 1960. Để đối phó sự thực hiện chính sách can thiệp quá đáng của chính phủ bởi những nhà làm luật, và với những thách thức đặt do do việc thành lập một liên minh thuế quan chung tại châu Âu (để dần trở thành Liên minh châu Âu ngày nay), từ đó Israel đã tiến hành một quá trình tự do hoá kinh tế từng bước. Quá trình này rõ ràng phải bắt đầu từ thương mại nước ngoài: những biện pháp hạn chế nhập khẩu được thay thế bằng việc bảo hộ bằng thuế quan, và các biện pháp bảo hộ này cũng dần giảm bớt, cả hoạt động thay đổi nhập khẩu và xuất khẩu đều được khuyến khích bằng các biện pháp tỷ giá sát thực tế hơn là bằng các biện pháp bảo hộ và trợ cấp. Nhiều thoả thuận thương mại từng phần với Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC), bắt đầu từ năm 1964, dẫn tới một Thoả thuận Tự do Thương mại (FTA) trong lĩnh vực hàng công nghiệp năm 1975, và một Thoả thuận Tự do Thương mại với Hoa Kỳ bắt đầu có hiệu lực năm 1985.

Tới cuối năm 1977 tự do hoá thương mại đã ở mức độ khá cao. Tháng 10 năm đó, Israel chuyển đổi từ hệ thống tỷ giá trao đổi cố định sang một hệ thống tỷ giá biến động, và các hạn chế áp đặt trên việc di chuyển dòng vốn được tự do hoá mạnh mẽ. Tuy nhiên, hành động này đã kéo theo một thời kỳ lạm phát nghiêm trọng khiến quá trình tự do hoá vốn lại bị tái kiểm soát. Các dòng vốn không hoàn toàn được tự do hoá cho tới đầu thế kỷ mới.

Trong suốt thập niên 1980 và 1990 những biện pháp tự do hoá mới đã được áp dụng: trong chính sách tiền tệ, trong thị trường vốn trong nước, và trong nhiều công cụ quản lý chính phủ vào hoạt động kinh tế. Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế đã giảm bớt đáng kể. Mặt khác, một số chức năng kinh tế của chính phủ đã tăng lên: một hệ thống y tế quốc gia được đưa ra, dù các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế tư nhân vẫn tiếp tục tham gia vào trong hệ thống y tế quốc gia. Các khoản chi phí xã hội, như trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp cho trẻ em, trợ cấp cho người già và hỗ trợ thu nhập tối thiểu, được mở rộng liên tục, cho tới khi chúng chiếm một phần lớn trong chi phí ngân sách nhà nước. Những khoản hỗ trợ đó, ở tầm rộng, đóng góp vào sự tiến bộ liên tục của sự đồng đều thu nhập, khiến Israel trở thành một trong những nước phát triển có tỷ lệ bất bình đẳng thu nhập tốt nhất. Tới năm 2003, 15 phần trăm ngân sách chính phủ chi cho những dịch vụ y tế, 15 phần trăm cho giáo dục và 20 phần trăm nữa cho những khoản chi thông qua Cơ quan Bảo hiểm Quốc gia.

Từ đầu năm 2003, Bộ tài chính đã tiến hành một nỗ lực lớn nhằm giảm các khoản chi phí lương, thúc đẩy sự tham gia lớn hơn vào thị trường lao động, tư nhân hoá các doanh nghiệp vẫn thuộc sở hữu của chính phủ, và giảm bớt cả quy mô các khoản thâm hụt của chính phủ cũng như của lĩnh vực công cộng. Các hành động đó là kết quả của một sự chấp nhận ý tưởng của những nhà làm luật hiện nay rằng một nền kinh tế thị trường thực sự là cần thiết để hội nhập vào một thế giới toàn cầu hoá.

Một định chế kinh tế quan trọng là Histadrut, một liên đoàn của các liên minh lao động. Cái làm định chế này trở thành duy nhất là, bên ngoài các chức năng liên đoàn lao động, nó còn gồm cả khu vực nông nghiệp và các hợp tác xã, các doanh nghiệp xây dựng và công nghiệp lớn, và cả các định chế an sinh xã hội, gồm cả nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ chính. Trong thời uỷ trị, và trong nhiều năm sau đó, Histadrut là một yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế và trong việc gây ảnh hưởng tới chính sách kinh tế. Trong thập kỷ 1990, Histadrut bị cắt bớt nhiều hoạt động không mang tính liên đoàn lao động, và ảnh hưởng của nó trong nền kinh tế vì đó cũng có giảm sút. Các liên đoàn chính liên minh với nó vẫn có nhiều tiếng nói trong các vấn đề liên quan tới lương bổng và việc làm.

Những thách thức phía trướcTiến vào thế kỷ mới, kinh tế Israel đã chứng minh một tương lai tươi sáng, khi nó tiếp tục đưa ra và áp dụng những cải tiến kinh tế mới, và có khả năng đương đầu với những biến đổi kinh tế. Tuy nhiên, kinh tế Israel cũng phải đối đầu với một số thách thức nghiêm trọng. Một số trong số đó tương tự như vấn đề mà hầu hết các nền kinh tế công nghiệp trên thế giới hiện gặp phải: làm sao để sự đổi mới diễn ra êm thấm, sự chuyển đổi từ các hoạt động truyền thống không còn mang lại nhiều lợi nhuận, sang các loại sản phẩm tinh vi và có hàm lượng công nghệ cao, với việc tái cơ cấu nguồn lao động liên quan, và sự bình đẳng trong thu nhập. Giống như các nền kinh tế nhỏ khác, Israel phải đối mặt với vấn đề làm sao hội nhập vào nền kinh tế thế giới, với hai thị trường chủ chốt là EU và Hoa Kỳ, và Trung Quốc, nền kinh tế đang nổi lên để trở thành một yếu tố kinh tế mới.

Các vấn đề xã hội liên quan tới những mối quan hệ giữa Israel và các nước Ả rập láng giềng của họ. Đầu tiên là những sự liên quan tài chính của nhiều vụ xung đột và các mối đe doạ quân sự. Rõ ràng, nếu hoà bình đến với khu vực này, các nguồn tài nguyên sẽ được chuyển đổi ở hiệu suất cao hơn. Hơn nữa, đầu tư nước ngoài, vốn rất quan trọng cho sự phát triển tương lai của Israel, cũng rất nhạy cảm với sự ổn định chính trị và an ninh. Các vấn đề khác phụ thuộc vào kiểu quan hệ được thiết lập; liệu hàng hoá sẽ được vận chuyển tự do và sẽ có những người lao động làm việc giữa nhà nước Israel và một nhà nước Palestine? Liệu sẽ có những mối quan hệ kinh tế khá tự do với các nước Ả rập khác để dẫn tới một sự hội nhập sâu hơn của Israel vào vùng này, hay, như mọi người thường nghĩ, liệu định hướng thương mại của Israel sẽ tiếp tục như hiện nay, chỉ diễn ra chủ yếu với các nước công nghiệp? Nếu điều này được chứng minh là đúng, Israel sẽ phải khéo léo đối xử giữa hai ông lớn: EU và Hoa Kỳ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lịch_sử_Israel http://books.google.com.au/books?id=0VG67yLs-LAC&p... http://books.google.com.au/books?id=8WkbUkKeqcoC&d... http://books.google.com.au/books?id=VtAmmwapfVAC&p... http://books.google.com.au/books?id=hd28MdGNyTYC&p... http://books.google.com.au/books?id=uDijjc_D5P0C&d... http://books.google.com.au/books?id=yYS4VEu08h4C&d... http://books.google.com.au/books?id=zFhvECwNQD0C&d... http://users.skynet.be/terrorism/html/israel_susan... http://www.jewishsf.com/bk970221/etdown.htm http://www.zionism-israel.com/photos.htm